DI TÍCH ĐÌNH TRƯỜNG ĐÔNG
Thông tin
-
DI TÍCH ĐÌNH TRƯỜNG ĐÔNG
-
ấp Trường Ân, Phường Long Hoa, Tây Ninh (ấp Trường Ân, Xã Trường Đông, Thị xã Hòa Thành, Tây Ninh)
Mô tả
Đình là ngôi nhà công cộng của cộng đồng làng xã Việt Nam, mỗi làng thường có một ngôi đình, đình phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Có nơi người ta dựng đình để thờ một vị thần nào đó (nhân thần) có công khai hoang mở đất hoặc chiến đấu chống ngoại xâm... có đình thờ thành hoàng bổn cảnh (linh thần) cầu mưa thuận gió hòa, tên của đình thường gắn với tên của làng xã. Như xã Trường Đông huyện Hòa Thành có ngôi đình mang tên: ĐÌNH TRƯỜNG ĐÔNG.
Đình Trường Đông tọa lạc tại ấp Trường Ân, xã Trường Đông, thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh.
Từ trung tâm thành phố Tây Ninh theo quốc lộ 22B đi hướng thành phố Hồ Chí Minh đến cây số 13 nhìn phía bên phải ta thấy cổng đình “Trường Đông”, theo con đường đất khoảng 400m thì đến đình. Mọi phương tiện ô tô, mô tô, ... đều đi đến di tích dễ dàng thuận tiện.
Theo các vị tiền bối trong Ban quí tế thì đình Trường Đông có cách đây hơn trăm năm, đình thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh (linh thần), hàng năm tổ chức lễ hội kỳ yên vào ngày 16 tháng 01.
Thời gian trôi đi, bánh xe lịch sử xoay vần, đình vẫn uy nghi đứng đó chứng kiến biết bao đổi thay của vùng đất Trường Đông từ lúc sơ khai.
Vào giữa thế kỷ 17, đất Tây Ninh là vùng đất hoang vu, người Việt mới bắt đầu đến khai phá. Năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất Chân Lạp và thu phục đất Nông Nại làm phủ Gia Định, lập xứ Đồng Nai, làm huyện Phước Long dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình dựng phiên trấn. Lúc này biên trấn gồm cả đất Tây Ninh tên là đạo Quang Phong trong phủ Gia Định.
Năm 1838 (Minh Mạng thứ 18) đổi phủ Gia Định thành tỉnh Gia Định và đặt thêm phủ Tây Ninh. Phủ Tây Ninh có 02 huyện là Tân Ninh và Quang Hóa, có hai tri huyện trấn nhậm, một ở làng Cẩm Giang và một ở tỉnh lỵ Tây Ninh hiện giờ.
- Năm 1861 tỉnh Tây Ninh được sáp nhập về Sài Gòn.
- Năm 1890 Pháp cắt một phần đất dọc theo "Rạch Ngã Bát" cho Campuchia, ranh giới tỉnh Tây Ninh từ đó trọn vẹn cho đến ngày nay.
Thời Pháp thuộc Tây Ninh có 02 quận: Quận Trảng Bàng và quận Thái Bình.
- Năm 1942 quận Thái Bình được đổi tên là quận Châu Thành.
- Năm 1959 chia quận Châu Thành ra làm 02 quận Phước Ninh và Phủ Khuơng.
- Năm 1979 UBND tỉnh Tây Ninh đề nghị với Trung ương đổi tên thành huyện Hòa Thành và chia làm 12 xã trong đó có xã Trường Đông cho đến ngày hôm nay.
Trong quá trình khai hoang lập ấp cho quê hương yên bình, nhân dân có được sống như ngày hôm nay. Đã có biết bao vị anh hùng ngã xuống. Lúc yên bình thì khai khẩn đất hoang, lúc có giặc thì chiêu mộ nghĩa quân lập căn cứ đứng lên chống giặc.
Nếu như ông Trần Văn Thiện có công khai mở vùng đất “Ngũ Long”, ông “Lãnh Binh Két” xây thành Bảo Long Giang để bảo vệ biên giới thì ở vùng Bến Thứ - Trà Vông - Cẩm Giang có 3 anh em họ Huỳnh lập căn cứ kháng giặc, chiến đấu đến hơi thở cuối cùng “Sống làm tướng, thác thành thần” lúc sa cơ thà tử tiết chứ không để giặc bắt.
Và không biết bao nhiêu bậc trung can nghĩa khí yêu nước thương dân, hy sinh thân mình bảo vệ quê hương đất nước, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, khi mất được phong thần lập miếu, xây đình khói hương thờ phụng, sùng kính muôn đời.
Trên đất Tây Ninh, có những ngôi đình ngoài việc thỉnh sắc phong của các địa phương khác về thờ phụng thì trên địa bàn tỉnh còn có những ngôi đình thờ "Thành Hoàng Bổn Cảnh" không ngoài các vị kể trên. Theo quan niệm đình là biểu tượng cho văn hóa làng xã, mỗi làng thường có một ngôi đình phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng cũng như cấu trúc phân tầng làng xã, khi chia làng tách xã thì các địa phương đó cũng lập đình mới để thờ, đình Trường Đông cũng không ngoài ý tưởng đó.
Đình Trường Đông thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh”, hàng năm nhân dân tổ chức lễ hội kỳ yên vào ngày 16 tháng 01, đúng 12 giờ 30 trưa nước ròng thì đưa thần đi. Hai vị tiền hiền là ông Huỳnh Văn Nhu và hậu hiền là ông Nguyễn Văn Tiền, hai vị này có công từ lúc lập đình được nhân dân trong vùng kính trọng. Đình thuộc loại di tích lịch sử kiến trúc và đã qua nhiều lần sửa chữa mới có kiến trúc như ngày nay.
Đình Trường Đông nằm về hướng Tây, trên một gò cao trong khuôn viên mát mẻ, trước là mặt sông Vàm Cỏ Đông quanh năm tàu thuyền tấp nập ngược xuôi. Kiến trúc đình hình chữ Tam(三)ba mái song song, kiểu mái bánh ít lợp ngói móc thường gặp ở các đình làng Nam Bộ. Cổng đình nằm sát quốc lộ 22B, theo sau con đường đất rộng khoảng 4m chạy thẳng vào khoảng 400m thì đến hông đình, trước sân đình có bàn thờ Thần Nông cao 2m hai bên là hai ngôi miếu thờ, miếu bên phải thờ Bạch Mã Thái Giám và miếu bên trái thờ Ngũ Hành Nương Nương, sân đình lát gạch tàu 30cm x 30cm. Mái lợp ngói trên bờ nóc là hình ảnh " lưỡng long chầu nậm rượu", tường xây quanh, ngoài tô rửa quét vôi, với 36 cột gạch 20cm x 20cm. Mặt trước đình được xây kiểu tam quan hình cửa võng, hành lang rộng 130cm, hai bên hiên rộng 140cm. Toàn bộ các cột gạch và cột áp tường chống đỡ các vì kèo, xiên, trính… bằng gỗ. Đình gồm 3 gian nhà và chia ra làm 3 lớp: vỏ ca, chính điện và hậu đình. Tổng diện tích được khoanh vùng bảo vệ là 1250m2.
Vỏ ca, có diện tích 62m2, chiều cao từ nền đến nóc 510cm, có tứ trụ (4 cột) vuông 35cm x 35cm cao 410cm, nền lát xi măng là nơi hành lễ mỗi khi có lễ hội. Với kết cấu cột, kèo, xiên, trính, chống giữa tạo nét kiến trúc vững chãi.
Chính điện, có diện tích 70m2 đây là nơi trang trọng nhất, được kết nối với vỏ ca bằng một máng xối, có chiều cao từ nền đến nóc 580cm, chính điện có tứ trụ tròn 30cm cao 450cm bằng gỗ bào trơn, trên các cột có các câu đối chữ Hán; Chính điện là bàn thờ thần, hai bên là bộ binh khí với 18 món, khám thờ thần có số đo 170cm x 180cm cao 140cm, mặt trước có hình chúa Sơn Lâm được họa tiết tinh xảo tăng thêm phần trang trọng của ngôi thờ thần, hai bên là cặp quy đội hạc đứng chầu có lọng che. Hai gian bên của ngôi chính điện là bàn thờ tả ban hữu ban, tiền hiền và hậu hiền có cùng số đo 110cm x 65cm cao 120cm, mặt trước bàn thờ trang trí hoa văn và hình tượng quê hương sông nước, vạn vật sinh sôi nẩy nở.
Hậu đình, giống như phần tiếp nối của ngôi vỏ ca và chính điện, hậu đình có chiều cao từ nền đến nóc 510cm, với diện tích 63m2 sát tường có bàn thờ Cửu huyền Thất tổ. Hiện vật trong di tích gồm:
1/- Cặp quy đội hạc bằng xi măng.
2/- Cặp chân đèn bằng gỗ có niên đại khoảng hơn 100 năm.
3/- Trống với chất liệu bằng da, gỗ.
4/- Mỏ bằng gỗ (một khúc gỗ dài).
Theo lời kể của các vị trong ban quí tế thì đình trước kia là một ngôi miếu nhỏ, vách ván, nhưng qua nhiều lần sửa chữa nên có được kiến trúc như ngày nay.
Đình Trường Đông được nhân dân xây dựng nên thờ “Thành Hoàng Bổn Cảnh” là những Linh thần có công với dân với nước, những bậc trung can nghĩa khí, là nơi diễn ra các lễ hội dân gian trong các ngày lễ kỳ yên thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Văn hóa là nền tảng của đời sống tinh thần và vật chất của con người, ngôi đình là nét đẹp văn hóa thông qua biểu hiện vật chất được truyền từ đời này sang đời khác không bị mai một.
Đình Trường Đông đã lưu giữ được giá trị truyền thống ấy, là nhân chứng lịch sử của thời kỳ mở đất và đấu tranh giữ đất của ông cha ta cùng các vị tiền hiền, hậu hiền tiếp bước cùng nhau xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp./.
Bản đồ

Để lại bình luận